Ai cũng có thể viết code ... tồi
Viết code không khó.
Một đoạn code Python với logic tầm thường ai cũng có thể viết, nhưng việc viết sao cho tốt thì hãy thử xem...
Function get_groups(name) nhận vào 1 string, tìm kết quả ở 1 nguồn dữ liệu, và trả về kết quả cần thiết. Đây là một phiên bản ai cũng viết được:
def get_groups(name):
all_groups = get_data_from_source()
groups = []
if name:
for group in all_groups():
if name.lower() in group['name'].lower():
groups.append({group['name']: group['id']})
else:
# if user provide empty string, return list customers as default
for group in all_groups():
if 'customer' in group['name'].lower():
groups.append(group['name'])
if len(groups) > 0:
return groups
else:
return "Group {} not found in groups".format(name)
Đoạn code nhìn qua tốt, chuẩn pep8, pythonic (for group in all_group()
chứ không dùng range
),
tên đặt cũng dễ hiểu. Nhưng hãy xem thật kỹ code, nghĩ xem có gì không tốt trước khi đọc tiếp.
... ... ...
Function này trông có vẻ ổn, cho đến khi ta gọi function này và xử lý kết quả của nó:
- nó có thể trả về 1 string, khi không tìm thấy
- nó có thể trả về list của các dictionary, nếu người dùng đưa vào name khác rỗng
- nó có thể trả về list của các string, nếu người dùng đưa vào string rỗng
Ai cũng có thể viết function, nhưng function trả về 3 kiểu dữ liệu khác nhau như vậy
thì chỉ làm cho người dùng nó thêm khổ. Người gọi function này sẽ phải xử lý cả 3 trường hợp,
hãy thử xem function sau là
function DUY NHẤT gọi get_groups
:
def handle_group_search(name):
result = get_groups(name)
if isinstance(result, str):
print(str)
else:
groups = []
if isinstance(result[0], dict):
groups = [list(d.items())[0][0] for d in result]
else:
groups = result
for n in result:
print(n.lower())
Trước tiên, code này cũng phải rẽ 3 nhánh để xử lý 3 loại đầu ra khác nhau của get_groups. Người dùng function này không có cách nào khác ngoài đọc code để hiểu function sẽ làm gì.
Lập trình viên sẽ viết code rất khổ, nếu có những function như get_groups()
có trên hệ thống. Giải pháp?
Viết lại function này đảm bảo một tiêu chuẩn:
Mỗi function chỉ trả về 1 kiểu dữ liệu.
Nếu get_groups
trả về []
hoặc 1 list chứa danh sách các tên của group, code gọi nó chỉ còn lại :
def handle_group_search(name):
result = get_groups(name)
if not result:
print('Not found name {} in groups'.format(name))
else:
for n in result:
print(n.lower())
Một lý do khác mà get_groups
là một function rất tệ, nó dùng kiểu dict để nhóm dữ liệu (group:id)
rồi nhét vào list. Khi dữ liệu lưu vào dict mà không để tìm kiếm hay không có key cố định, nó
chỉ là một nỗi đau. Để lọc ra name của groups, code sử dụng đã phải viết:
groups = [list(d.items())[0][0] for d in result]
code trên biến dict 1 phần tử thành 1 list và truy cập lấy tên của key:
In [1]: d = {'Pymi': 17}
In [2]: list(d.items())
Out[2]: [('Pymi', 17)]
In [3]: list(d.items())[0]
Out[3]: ('Pymi', 17)
In [4]: list(d.items())[0][0]
Out[4]: 'Pymi'
Bạn thậm chí có thể viết dài hơn thế:
groups = []
for d in result:
name = []
for k, v in d.items():
name.append(k)
groups.extend(name)
Nếu get_groups
trả về list của các tuple, code chỉ cần:
groups = [group[0] for group in result]
Thậm chí có thể tốt hơn nếu dùng namedtuple. (i.e: group.name)
Nếu nó trả về list cả các dict có key cố định, code chỉ cần:
groups = [d['name'] for d in result]
Lựa chọn kiểu dữ liệu phù hợp với mục đích sử dụng, chính là điều khiến code của bạn trở nên đẹp hơn, dễ hiểu hơn, dễ xử lý hơn.
Code không chỉ là kỹ thuật, code còn là một nghệ thuật. Và người tạo ra bug chính là nghệ sỹ.